Sau khi Abel bị giết và người anh trai là Cain đi đến vùng đất khác, đức Chúa Trời lại ban tặng cho Adam và Eva một đứa bé khác. Đứa trẻ này có tên là Seth; sau đó Chúa lại ban cho họ nhiều con trai và con gái. Vợ chồng Adam và Eva sống được nhiều năm nhưng cuối cùng họ đã chết như lời Chúa phán bảo họ phải chết, bởi vì họ đã ăn trái cấm.
Lúc Adam chết, trên quả đất đã có nhiều người sinh sống, con cái của Adam và Eva lại sinh con đẻ cái, rồi bọn trẻ này lớn lên lại tiếp tục sinh con đẻ cái. Nam nữ, già trẻ, lớn bé đã lên đến hàng chục người. Họ đều có bò, cừu và thú nuôi, rồi họ đi hết từ nơi này sang nơi khác và họ đã tìm ra những đồng cỏ. Bọn trẻ suốt ngày chơi đùa xung quanh các căn lều và đốt lửa trại mỗi khi trời tối, rồi cùng nhau hát lên những bài ca, những người lớn tuổi thì ngồi kể chuyện. Sau một thời gian, vùng đất mà con trai Adam sinh sống đã trở nên trù phú, đông đúc.
Đáng buồn thay, khi ngày càng đông người và lòng người cũng mỗi ngày thêm xấu xa, càng ngày càng ít những người đàn ông và phụ nữ tốt. Tất cả mọi người sống gần nhau và họ ít đi tìm kiếm những vùng đất mới; vì thế nên bọn trẻ học lẫn nhau những thói hư tật xấu và cứ như vậy dần dần chẳng phân biệt được cái gì đúng và tốt nữa.
Và đúng như điều mà Chúa Trời đã nhận định, ngài đã biết được vì sao con người đã trở nên xấu xa và suy nghĩ cũng như hành động của con người lại độc ác đến vậy.
Tuy nhiên, bên cạnh phần lớn những con người độc ác đó, cũng có những con người lương thiện, nhưng họ chỉ là số ít. Người tốt nhất lúc bấy giờ là người đàn ông có tên là Enoch. Anh ta không phải và con trai của Cain mà là một Enoch khác, anh ta đến từ gia đình của Seth – con trai Adam, anh ta được sinh ra sau cái chết của Abel. Trong khi mọi người xung quanh Enoch đều làm những điều ác, thì người đàn ông này chỉ làm những điều thiện. Anh ta cùng với Chúa Trời du hành và chuyện trò thân mật. Nhưng cuối cùng, Enoch cũng trở nên già đi và mệt mỏi với cuộc sống, Chúa đã mang anh ta từ Trái đất bay đến Thiên đàng. Anh ta đã không chết, trong khi tất cả mọi người kể từ thời Adam không tuân theo lệnh Chúa thì anh ta lại không như thế, anh ta đã để Chúa mang anh ta về trời. Điều này muốn nói lên rằng Enoch đã được đưa lên trời và anh ta sống mãi.
Tất cả mọi người vào thời Enoch không phải đi chăn cừu. Một vài người trong số họ học cách làm thế nào để chế tạo ra nhiều cung tên, cày và rìu, ít lâu sau họ biết làm tan chảy sắt để làm thành những con dao, kiếm và bát đĩa sử dụng trong gia đình. Họ gieo những hạt thóc giống trên đồng và thu hoạch mùa màng, họ trồng nhiều nho và cây ăn quả. Nhưng rồi đức Chúa Trời đã nhìn xuống trái đất và nói:
“Ta sẽ mang đi tất cả những thành quả mà các ngươi làm ra; bởi vì loài người trên thế giới này rất ác độc!”.
Thế rồi đức Chúa Trời đã nhìn thấy một người đàn ông lương thiện trong thời gian tồi tệ này. Người ấy là Noah, trong tầm ngắm của Chúa Trời, Noah đã cố gắng làm mọi điều tốt như du hành cùng đức Chúa, nói chuyện với Chúa. Noah có ba người con trai, tên của chúng là Shem, Ham và Japheth.
Đức Chúa nói với Noah, “Thời gian tới, khi tất cả đàn ông và phụ nữ trên trái đất này bị tiêu diệt. Mọi người phải chết bởi vì họ là những kẻ xấu xa. Nhưng con và gia đình của con sẽ được cứu rỗi, vì chỉ mình con biết cố gắng làm những điều đúng đắn lương thiện”.
Sau đó đức Chúa đã chỉ cho Noah cách cứu rỗi cuộc đời của chính mình và những đứa con trai. Ông ta đã làm một chiếc thuyền lớn, lớn bằng những chiếc thuyền lớn nhất trong thời đại của chúng ta. Thuyền rất dài, rất rộng và rất cao, mỗi một vòm mái của nó dài và rộng bằng cả ngôi nhà ba tầng, nó có thể nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Mỗi một con thuyền như vậy gọi là “một Ark”[1]. Đức Chúa bảo Noah chế tạo con thuyền lớn này và chuẩn bị sẵn sàng phòng khi cần dùng đến nó.
Vì Noah, đức Chúa đã nói, “Ta sắp mang một trận đại hồng thuỷ đến trái đất này, nước lũ sẽ ngập hết tất cả đất đai và dìm chết tất cả loài người. Và tất cả thú vật sẽ bị chết đuối cùng với con người. Con phải làm một con thuyền đủ lớn để mang những đôi thú vật, mỗi loài mỗi đôi mà con người sẽ phải cần đến như cừu, dê và những loài vật có sừng, như vậy sẽ có những loài thú vật cũng như con người tốt tồn tại và sống trên trái đất sau khi nạn đại hồng thuỷ qua đi. Con cũng phải mang thức ăn lên thuyền đủ để nuôi sống con và gia đình của con, cũng như các loài vật; thức ăn phải đủ trong vòng một năm vì trận lũ này sẽ kéo dài đúng một năm.
Noah đã làm tất cả những việc mà Chúa Trời căn dặn, mặc dầu những người xung quanh xem đó như là những việc kỳ quái, vì làm chiếc thuyền lớn như thế ở đây làm gì có nước để căng buồm. Thời gian trôi qua, Noah và con trai của mình ngày đêm hì hục làm thuyền, trong khi những người xấu xa xung quanh vô cùng ngạc nhiên và rất có thể họ đã cười chế nhạo việc Noah làm thuyền lớn ở nơi không có biển.

Cuối cùng, chiếc thuyền lớn đã hoàn thành và trông như một ngôi nhà khổng lồ, sừng sững trên nền đất. Có một cánh cửa lớn bên hông thuyền và một cửa sổ trên mái để lấy ánh sáng mặt trời. Thế rồi đức chúa bảo với Noah:
“Hãy lên thuyền mau đi, con và vợ của con, cả các con của con nữa, tất cả hãy lên thuyền đi, nước lũ sắp ập đến rồi đấy. Con hãy mang theo những loài vật, chim muông và bò sát nữa; những loài vật này sẽ rất cần thiết cho loài người, chúng sẽ được sống trên trái đất và tiếp tục sinh sôi nảy nở”.
Như vậy, vợ chồng Noah với ba người con của họ là Shem, Ham và Japheth cùng ba nàng dâu lên thuyền. Chúa cũng đã mang những loài thú vật, chim muông và những loài bò sát đưa chúng đến và cho lên thuyền. Noah và con trai nhốt những con vật vào đúng vị trí, mang thức ăn cho chúng. Sau đó, họ đóng cánh cửa thuyền lớn lại, không còn người nào và thú vật nào lên thuyền được nữa.
Ít ngày sau, mưa bắt đầu đổ xuống, những cơn mưa lớn mà trước đây chưa bao giờ có. Dường như cánh cửa trời đã được mở để dội xuống trần gian những dòng nước cuồn cuộn. Những con suối đầy nước, những động sông nước dâng mỗi lúc mỗi cao, chiếc thuyền lớn của Noah bắt đầu nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Mọi người rời bỏ nhà cửa để chạy lên đồi cao; nhưng không lâu những ngọn đồi cũng bị ngập nước, tất cả mọi người trên đồi đều bị chết đuối.
Một vài người leo lên những ngọn núi cao hơn để lánh nạn, nhưng nước dâng lên cao và cao mãi đến lúc ngay cả những ngọn núi cao chót vót cũng bị nhấn chìm và tất cả những kẻ xấu xa đều cùng chung số phận, đều bị chết đuối trong biển nước mênh mông. Dòng nước lăn mình đến khắp nơi trên trái đất, chảy khắp những nơi có loài người sinh sống. Tất cả động vật, thú vật thuần hoá, vật nuôi, cừu, bò. .. đều bị chết đuối; các loài động vật hoang dã, sư tử, hổ báo và các loài khác cũng đều bị chết đuối. Ngay cả loài chim cũng không thể sống sót, tổ của chúng cũng bị nước cuốn trôi, chúng đã không còn nơi nào để bay trong cơn bão tố khủng khiếp. Qua bốn mươi ngày đêm, cơn mưa vẫn còn kéo dài, mãi cho đến khi không còn sự sống nào nữa, ngoại trừ những loài còn sót lại trên chiếc thuyền lớn của Noah.

Sau bốn mươi ngày thì cơn mưa bắt đầu tạnh, nhưng nước lũ vẫn bao phủ trái đất suốt hơn sáu tháng trời, chiếc thuyền Ark đã trôi qua biển và dạt vào một vùng đất liền. Thế rồi đức Chúa đã cho thổi một cơn gió lên mặt nước, làm cho nước bị bốc hơi; vì thế mà mực nước ngày càng hạ xuống. Ngọn núi đầu tiên nhô lên khỏi mặt nước, rồi đến những ngọn đồi và cuối cùng con thuyền lớn của Noah cũng ngừng trôi và nằm lại trên một ngọn núi, tên của ngọn núi này là Mount Ararat.
Thế nhưng Noah vẫn không hay biết điều gì đã xảy ra trên trái đất, bởi vì cánh cửa thuyền đã đóng kín. Sau một thời gian chờ đợi, Noah đã mở cửa sổ và thả những con quạ ra bên ngoài. Những con quạ bây giờ đã có đôi cánh khoẻ mạnh; chúng bay lượn quanh bầu trời cho đến lúc nước lũ rút xuống, không có thể tìm thấy nơi đậu và không còn bay trở lại thuyền nữa.
Thế rồi Noah cũng thả cả những con bồ câu; nhưng những con chim bồ câu thì không tìm thấy nơi nào để đậu cả, thế là chúng bay trở lại thuyền, Noah đã bắt chúng trở lại. Đợi thêm một tuần, Noah lại thả những con chim bồ câu một lần nữa. Và vào một buổi tối, những chú chim bồ câu bay trở lại con thuyền và mang trên mỏ những chiếc lá xanh mà chúng cắp được từ những cây Ôliu.
Cũng nhờ đó mà Noah biết nước lũ đã rút và cây cối đã mọc trở lại. Anh đợi thêm một tuần nữa và lại thả những chú chim bồ câu ra khỏi thuyền; nhưng lần này những con chim bay đi đã không bao giờ còn quay trở lại. Noah biết rằng, quả đất đã khô ráo trở lại. Thế là anh ta dỡ bỏ một phần mái nhà và nhìn ra ngoài, anh ta thấy những ngọn đồi khô ráo xung quanh con thuyền và nước lũ không còn phủ khắp mọi nơi nữa.
Đến lúc này, Noah sống trên thuyền đã hơn một năm, anh ta vô cùng vui mừng khi được nhìn thấy những đồng cỏ và cây cối xanh tươi. Và đức Chúa nói với Noah:
“Hãy ra khỏi thuyền, cùng với vợ con, những nàng dâu và tất cả loài vật còn sống trên chiếc thuyền này!”
Thế là Noah mở cửa, cùng với gia đình bước ra khỏi thuyền, lại một lần nữa đặt chân lên mặt đất. Các loài thú vật, chim muông, các loài bò sát trên thuyền đều ra khỏi thuyền và tất cả lại bắt đầu mang đến sự sống trên trái đất.
Việc đầu tiên Noah làm khi rời khỏi con thuyền là đến tạ ơn đức Chúa đã ban sự sống cho gia đình mình trong khi mọi loài trên trái đất đã bị diệt vong. Anh ta lại thiết lập bàn thờ và phẩm vật dâng cúng đức Chúa và cùng với gia đình mình thề trước Chúa những việc sẽ làm sau này.
Đức Chúa vui vẻ nhận sự dâng cúng của Noah và dạy rằng:
“Ta sẽ không huỷ diệt lại trái đất và con người nữa, không còn điều gì xấu xảy đến với họ. Từ nay về sau không còn nạn lụt nào ngập chìm quả đất; nhưng các mùa xuân, hạ, thu, đông sẽ không thay đổi. Ta tặng cho con Trái đất; con sẽ là người thống trị Trái đất và toàn bộ sinh vật trên trái đất này”.
Thế rồi đức Chúa tạo ra một chiếc cầu vồng bắc qua bầu trời, rồi Người nói với Noah và con trai Noah rằng: chừng nào họ và con cái của họ sau này còn thấy chiếc cầu vồng thì còn nhớ đến đức Chúa và chiếc cầu vồng bắc ngang bầu trời, xuyên qua những đám mây là biểu tượng của lời hứa rằng Chúa luôn tưởng nhớ đến Trái đất và muôn loài đó và Ngài không bao giờ gieo nạn đại hồng thuỷ, huỷ diệt con người trên trái đất nữa. Cho nên mỗi lần chúng ta nhìn thấy chiếc cầu vồng xinh xắn, chúng ta lại tưởng nhớ đến lời hứa của Chúa với thế gian này.
[1] Ark: thuyền lớn