Đức tin của người trẻ không tan biến, nó trôi giạt về những bến bờ
Lẽ dĩ nhiên Thiên Chúa là bến bờ đích thực và cùng đích của cuộc sống. Nhưng ngày càng xuất hiện nhiều bến bờ tạm bợ khác nơi người trẻ thích nương mình nhiều hơn là tìm kiếm đến chân lý tột cùng, hoặc không nhận ra tính chất tạm bợ của chúng. Người trẻ gửi gắm vào những bến bờ ấy nhiều thứ: đời sống, hi vọng, hoài bão, tâm sức, và cả niềm tin nữa. Khi những bến bờ tạm bờ tan biến, mọi thứ được ký thác vào nó đương nhiên sẽ chìm đắm xuống đại dương ảo ảnh. Tiền tài, danh vọng, sự nổi tiếng, sự hào nhoáng, lạc thú, tiện nghi, sự thoải mái, thay vì là hồng ân Chúa ban thì chúng ta đang xem chúng là cứu cánh của cuộc sống, thay vì là những tên đầy tớ thì chúng ta biến chúng thành ông chủ, thay vì là những điểm neo đậu trên hành trình trần gian thì lại hóa ra những bến bờ cho cuộc đời. Người trẻ rất nhạy cảm và phản ứng cũng rất mạnh trước những kích thích, nếu họ tin vào điều gì họ sẽ hành động hết sức mình vì điều ấy, khi họ bị lôi cuốn bởi cái gì, họ sẽ xả thân để đạt được. Trên những bến bờ kia dường như không ngừng vang lên khúc hát mê đắm của các nàng tiên cá vẫy gọi, mời chào, hứa hẹn, dụ dỗ, lôi kéo người trẻ. Họ làm sao thoát được nếu chỉ bằng đức tin yếu ớt vào Thiên Chúa không chút định hướng, không điểm tham chiếu, không nơi nương tựa, không người giúp sức.
Một bi kịch khác, họ đến được những bến bờ tạm ấy khi còn đang thanh xuân, và bến bờ ấy tan biến khi họ đã không còn sức trẻ. Mọi sự đều tan biến như một cơn mộng mị. Khi đó Thiên Chúa, vốn đã rất mờ nhạt trong tâm trí, không những sẽ bị đẩy xa hơn khỏi cuộc đời họ, nhưng nhiều khi bị làm cho méo mó và thành nơi cho họ quy đổ những tội lỗi. Họ chới với trong cơn khủng hoảng của riêng họ. Lúc ấy, dù Chúa có bước đến cùng họ giữa cơn gió bão, đưa bàn tay cứu vớt của Ngài ra và nói “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14,27) thì liệu họ có còn nghe chăng!
Trong chương 5 Tông huấn Christus Vivit, Đức Thánh Cha nói đến “Những nẻo đường tuổi trẻ”. Một mặt Đức Thánh Cha thúc giục người trẻ đừng ngại ngùng bước ra cuộc đời, hãy hòa mình vào đó, hãy dũng cảm ra đi, một mặt ngài nhắc nhở người trẻ hãy luôn giữ đức tin như hành trang tối cần thiết cho mình. Ngài khuyên người trẻ hãy khát khao sống và trải nghiệm: “Thế giới chúng ta tràn đầy vẻ đẹp! Cớ sao lại xem thường bao nhiêu là quà tặng của Chúa?” đồng thời Ngài nhắc nhở người trẻ hãy gìn giữ tình bạn chí thành với và của Đức Kitô: “Tình bạn với Chúa Giêsu không thể bị phá vỡ. Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta, dù nhiều khi dường như Ngài im lặng.” Ngài thúc giục chúng ta hãy sống tình bằng hữu với Chúa và với tha nhân, và mạnh dạn trở thành những nhà truyền giáo để mang Chúa đến với thế giới cách tích cực.
Đó là những hướng đi vừa “gần gũi” với Đức Kitô hằng sống nhưng cũng đảm bảo cho chúng ta không để để lạc trôi những phần thưởng của cuộc đời này. Bước theo những nẻo đường ấy chúng ta sẽ luôn gìn giữ được Đức Kitô trong lòng mình, và chừa cho Ngài một gian phòng để Ngài sống trong mỗi chúng ta, để bất cứ khi nào chơi với chúng ta đều nhớ đến Ngài và la lên “Thưa Ngài, xin cứu con với!”.
Đức tin của người trẻ cần được vun trồng, để bám rễ vững chắc trong lòng họ
Đức tin là một hành trình như tất cả chúng ta đều biết. Thiên Chúa không tạo ra sẵn đức tin và ném nó vào tâm hồn chúng ta, nhưng Ngài gieo một hạt mầm để nó lớn lên từng ngày. Nhưng hạt mầm ấy cũng có thể sẽ héo úa và lụi tàn nếu không được chăm sóc. Rủi thay đó lại là thực tế đang trở nên phổ biến giữa lòng người trẻ, hạt giống đức tin của họ đang bị bỏ mặc. Họ không quan tâm tới, và người khác, nhất là những người được Chúa trao trách nhiệm của một người “làm vườn” cũng không quan tâm tới, hoặc không nhận ra.
Thời đại 4.0 là một môi trường không dễ gì đức tin triển nở lên được, nó sẽ phải cạnh tranh sức sống với rất nhiều thứ sinh sôi nảy nở khác, sẽ phải đối mặt với rất nhiều sâu bệnh mà trước đây Giáo hội chưa từng biết tới. Kết quả là, khi Giáo hội phản ứng với thời đại càng chậm chạp bao nhiêu thì đức tin trong lòng người trẻ càng mau lụi tàn bấy nhiêu. “Người làm vườn” nếu không nhận ra sự thay đổi của thời tiết, sự phát sinh các giống sâu bệnh mới, thì làm sao vun trồng được hạt giống.
Trong hết khả năng có thể, Giáo hội cần xây dựng một đường lối Mục vụ Giới trẻ phù hợp để trong sự hướng dẫn của Chúa sẽ từng ngày làm cho hạt giống đức tin của người trẻ lớn lên, đồng thời được bảo vệ. Đức Thánh Cha nhấn mạnh tới hai hướng đi chính khi làm mục vụ giới trẻ: “Một là tiếp cận, là cách chúng ta thu hút các bạn trẻ mới để các bạn bắt đầu có những kinh nghiệm về Thiên Chúa. Hai là thăng tiến, nhằm giúp những người đã có kinh nghiệm được trưởng thành hơn trong đức tin.” Đó chính là sự vun trồng và chăm sóc bằng cả sự quan tâm bền bỉ chứ không hời hợt.
Về phía người trẻ, Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta “đừng để bị bật rễ”, nhưng hãy luôn hướng về nguồn cội, trước tiên là Đức Giêsu, tiếp đến là Giáo hội, và sau cùng là những bậc cao niên đã có chặng đường dài kinh nghiệm đức tin. Nguồn cội còn là lịch sử, là những truyền thống quý báu của Giáo hội, những kinh nghiệm của cha ông. Hãy bám rễ trên đó để lớn lên thay vì khinh thường quá khứ.
Hành trình đức tin của cá nhân hòa chung vào hành trình đức tin của giáo hội, nương tựa và “hút lấy dưỡng chất” từ giáo hội để lớn lên. Người trẻ cần phải là dòng máu tươi mới nối tiếp chảy trong huyết quản của Giáo hội. Người trẻ cần tiếp thu những gì thế hệ đi trước đã đạt được, cần phải nối tiếp mơ ước chưa thành tựu của họ, cần học hỏi những gì họ đã trải qua. Sự liên tục và gắn kết giữa các thế hệ chính là sự liên tục của Giáo hội.
Tất cả hãy dìu nhau vượt qua những cơn thử thách của thời đại. Người già hãy thông truyền giá trị đức tin cho người trẻ, người trẻ hãy đón nhận và nuôi dưỡng sao cho phù hợp trong môi trường hiện đại. Rồi một ngày người trẻ sẽ trở thành người già và tiếp tục truyền lại đức tin ấy cho các thế hệ mai sau. Cho là dòng chảy không ngừng nghỉ cho đến tận thế. Người già hãy là những thân cây cổ thụ che chở cho người trẻ là những mảnh vườn đang âm thầm lớn lên, người trẻ hãy biết nương tựa và bấu víu và nguồn sống dồi dào đã được tích lũy qua bao thế hệ. Và Giáo hội hãy là một người làm vườn khôn khéo tạo điều kiện cho tất cả những điều ấy.
Sự phân định ơn gọi, một chỉ dẫn cho người trẻ giữa thời giông bão
Ơn gọi và phân định chính là trọng tâm mà Đức Thánh Cha chỉ ra để giúp người trẻ gìn giữ đức tin của mình trong thời đại ngày nay. Có lẽ chưa bao giờ sự phân định lại quan trọng đối với người trẻ cho bằng hiện tại. Có lẽ chưa bao giờ sự cám dỗ lại đa dạng, dồi dào, và hấp dẫn đối với người trẻ cho bằng thời đại 4.0 ngày nay. Có lẽ chưa bao giờ Giáo hội gặp một thử thách lớn lao như bây giờ trong nỗ lực giáo huấn người trẻ và “làm cho họ thành môn đệ” của Chúa.
Người trẻ ngày nay tự do, nhiều kiến thức, tầm nhìn rộng mở. Họ thấy rất nhiều thứ, có thể làm mọi sự, sẵn sàng đặt chân vào bất kỳ lĩnh vực nào. Quá nhiều nẻo đường cho họ lựa chọn, quá nhiều “option” cho họ cân nhắc. Vậy nên vai trò của sự phân định càng thêm quan trọng. Nhận ra được vị trí đích thực của mình giữa lòng thế giới, vai trò mà Chúa muốn chúng ta đảm nhận, con đường Ngài muốn chúng ta bước đi thật không phải là điều dễ dàng.
Người trẻ trước tin cần phải gìn giữ được đức tin của mình trước khi có thể phân định trong sự soi sáng của Chúa Thánh Thần và hướng dẫn của Giáo hội. Đó là lý do tại sao hai chương cuối cùng của Tông huấn Đức Thánh Cha mới bàn tới Ơn gọi và Phân định, sau khi đã dành tất cả những chương trước đó như một kế hoạch và chỉ dẫn để vun trồng, bảo vệ, và xây dựng đức tin cho người trẻ. Phải có đức tin trước khi bàn tới phân định.
Vậy thì người trẻ có đức tin phải làm thế nào để nhận ra ơn gọi của mình. Cần nhớ rằng ơn gọi của Chúa là một ơn gọi kéo dài cả cuộc đời, trong gia đình, trong nghề nghiệp, trong mối tương quan với Thiên Chúa. Đức Thánh Cha khuyên rằng “Vì sự phân định này là quyết định cá nhân nên người khác không thể làm thay, chúng ta cần phải xét mình và thinh lặng.” Xét mình và thinh lặng dường như là kim chỉ nam cho mọi tín hữu. Chỉ khi xét mình chúng ta mới nhìn nhận bản thân, và chỉ khi thinh lặng chúng ta mới lắng nghe được tiếng Chúa. Xét mình và thinh lặng không phải việc dễ làm đối với người trẻ, vì họ luôn năng động, luôn “active” đến mức cho rằng, hoặc sợ rằng, nếu thinh lặng và xét mình họ sẽ không còn là người trẻ nữa.
Chúa Giêsu là bạn thân của mỗi người trẻ. Và những người bạn thân luôn cố gắng dành cho nhau điều tốt nhất. Món quà của người bạn Giêsu chính là ơn gọi đích thực cho mỗi chúng ta, những người trẻ đương đại. Tất nhiên cần phải đi vào cuộc đối thoại với Đức Kitô, trên tinh thần bằng hữu và tin tưởng, thì chúng ta mới tiến tới sự khám phá ơn gọi của mình.
“Khi Chúa khơi dậy một ơn gọi, Ngài không chỉ nghĩ xem các con là ai, hơn thế, Ngài quan tâm các con sẽ là ai trong tương lai, khi nhận được sự đồng hành của Chúa và mọi người.” Ở đây có hai tính chất quan trọng của ơn gọi, một là tính “tương lai” và hai là “sự đồng hành của Chúa và mọi người.” Ơn gọi của Chúa hướng chúng ta đến một tương lai là chính mình, được sống trọn vẹn. Và trong ơn gọi chúng ta đã chọn lựa, chúng ta cần Chúa và mọi người đồng hành. Không ai có thể bước đi một mình. Chính Chúa đi cùng chúng ta như đã đi cùng hai môn đệ Emmau, và Ngài cách này cách khác gửi đến những ngôn sứ của Ngài để tiếp tục đồng hành cùng chúng ta luôn mãi.
Điều đó cũng có nghĩa rằng chúng ta là “tha nhân” của một người khác, và hiển nhiên Chúa cũng kêu gọi chúng ta đồng hành với họ. Cùng nhau, và trong sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, tất cả sẽ cùng đi con đường của mình.
Vai trò của Giáo hội trong việc giúp đỡ người trẻ phân định ơn gọi cũng rất quan trọng. Vì Giáo hội là hiện thân của Đức Kitô trên trần gian, nên phải đồng hành với người trẻ như cách Chúa Giêsu đã đồng hành, phải lắng nghe như Chúa Giêsu lắng nghe, và hành động như Chúa Giêsu đã hành động. Và Giáo hội phải linh hoạt để không ngừng tìm ra những cách thức mới phù hợp và hiệu quả trong việc dìu dắt người trẻ đi theo đường lối.
Giáo hội không được cứng nhắc, không được lo cho sự an toàn của mình, không được bảo thủ, không được cố chấp, nói chung Giáo hội phải là chính Chúa Giêsu. Đến đây người viết nhớ lại một câu chuyện nhỏ trong tiểu thuyết “Anh em nhà Karamazov” của đại thi hào người Nga Fyodor Dostoyevsky (1821-1881). Bối cảnh của câu chuyện là xã hội Nga thời kỳ loạn lạc và sự thống trị của giới tăng lữ trên tinh thần và vật chất của dân chúng. Tác giả kể rằng có một lần chính Chúa Giêsu hiện ra và bước vào thành phố nơi dày đặc Kitô hữu và các chức sắc tôn giáo. Họ nhận ra ngay đó chính là Chúa Giêsu, là Đấng họ vẫn thờ phượng hàng ngày trong nhà thờ và qua thánh lễ. Nhưng thay vì nghênh đón, các vị hồng y và giám mục lập tức cho quân lính bắt bớ và tống Ngài vào ngục. Một vị hồng y đến với Ngài và nói rằng: “Lạy Chúa, Ngài còn quay trở lại trần gian này làm gì. Ngài đã thất bại rồi. Ngài đã thất bại hai ngàn năm trước. Giáo hội bây giờ là của chúng tôi, xin Ngài đừng đến đây làm phiền chúng tôi nữa.”
Chúng ta liệu có đang cách này cách khác nói với Chúa những lời như thế không. Chúng ta thờ phượng Ngài nhưng không đón nhận Ngài. Chúng ta rao giảng Ngài nhưng không muốn Ngài làm phiền chúng ta. Thật khó để phân biệt được những điều ấy.
Kết
“Người trẻ các con thân mến, niềm hi vọng tràn niềm vui của cha là thấy các con tiến về phía trước…cứ tiến bước… Giáo hội cần nhiệt huyết, trí tuệ và đức tin của các con.” Vị cha chung thúc giục người trẻ trong những lời sau cùng của Tông huấn. Ngài muốn chúng ta phải thể hiện khuân mặt trẻ trung của Chúa Giêsu giữa đời sống, ngài ao ước chúng ta cộng tác cùng Giáo hội bằng sức trẻ của mình.
Cầu Chúa cho ước mong của Đức Thánh Cha thành tựu!
Xem kỳ trước
[blog_posts style=”normal” columns=”3″ columns__md=”1″ ids=”972″ excerpt=”false” image_height=”56.25%” text_align=”left”]